Tôn giả Ca Chiên Diên là một trong 10 đệ tử lớn của đức Thế Tôn, tôn giả có tài biện luận và thuyết phục người nghe rất tài tình, khiến cho họ hiểu rõ và tin nhận.
Một ngày kia tôn giả đi ra bờ sông, gặp một thiếu phụ đang ngồi than khóc. Bà kể cho tôn giả nghe hoàn cảnh khốn khổ của mình và nói rằng bây giờ, bà chỉ muốn nhảy xuống sông tự tử cho thoát khỏi cảnh khốn đốn cùng tận này.
Tôn giả Ca Chiên Diên hỏi rõ nguyên nhân của sự nghèo khổ rồi nói: tôi sẽ chỉ cho bà một phương pháp thoát khỏi cảnh nghèo; đó là: hãy đem bán nó đi !
Thiếu phụ kinh ngạc hỏi: đem cái nghèo đi bán à ? Ai mà chịu mua cái nghèo đây ?
Tôn giả Ca Chiên Diên đáp: Hãy bán cho tôi ! Bố thí chính là để bán cái nghèo, chỉ có bố thí mới có thể bán cái bần cùng mà mua cái giàu có an vui. Bà hãy bố thí cho tôi một ít nước !
Nhưng người đàn bà này quá nghèo, không có cả một cái chén để đựng nước! Tôn giả Ca Chiên Diên liền đưa bình bát cho bà. Người thiếu phụ lấy bình bát múc nước, hai tay cung kính dâng cho tôn giả rồi vui vẻ trở về nhà, không còn ý định tự sát nữa.
Bố thí có công năng to lớn như vậy, xin giới thiệu Anh Chị Em bài pháp thoại về “Bố thí và bố thí ba la mật” do Thầy Thái Hòa giảng. Thầy là cố vấn giáo hạnh của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở quốc nội và hải ngọai để Anh Chị Em cùng đọc và suy gẫm về ý nghĩa thâm thúy của 2 chữ “Bố thí”
Trân trọng,
BBT
I- BỐ THÍ
Bố thí cơ bản có ba cách: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí. Đó là ba cách bố thí căn bản của người Phật tử. Vì vậy, người Phật tử phải luôn thực tập các pháp bố thí đó dưới hình thức này hay hình thức khác.
1. Tài thí
Tài thí là đem tài sản của mình ra để chia sẻ cho những người chung quanh hoặc có khi cho tiền hoặc cho một bữa cơm hay một bộ quần áo, làm nhà cho người ta ở hay dạy cho người ta làm ăn, cho họ vay vốn hoặc chỉ bày phương pháp làm kinh tế, xây một bệnh viện chữa bệnh giúp cho người nghèo… đó cũng gọi là tài thí.
Nếu trong bệnh viện xây để chữa bệnh đó, ta thiết lập được lớp thiền để người bệnh thực tập thiền quán, áp dụng vào cơn bệnh của mình rồi an tâm cho cơn bệnh giảm xuống hoặc tạo cho người bệnh có chỗ niệm Phật để tạo được sự tin tưởng và bệnh của họ giảm thiểu, đời sống tương lai của họ cao hơn, như vậy trong tài thí có pháp thí.
2. Pháp thí
Pháp thí là đem những sự học hỏi chánh pháp, sự thực hành chánh pháp của mình để chia sẻ cho những người chưa có cơ hội học hỏi. Mình học Phật pháp, thực hành Phật pháp, chia sẻ Phật pháp cho những người xung quanh, đồng thời phát tâm in kinh sách để ấn tống thì đó cũng gọi là pháp thí.
Pháp thí là đưa Phật pháp vào trong đời sống của những người xung quanh. Pháp thí phổ quát hơn tài thí, tài thí chỉ nhắm tới những người nghèo vật chất thôi, nhưng pháp thí thì mọi thành phần đều được hưởng. Bởi vì, có người tuy giàu vật chất, nhưng vẫn nghèo hiểu biết, nghèo tinh thần, nghèo tâm linh. Pháp thí rộng về không gian, phổ cập đối tượng và rộng luôn về mặt thời gian. Khi một người nhận được pháp và thực hành pháp thì nó không chỉ giải quyết cho người đó hạnh phúc tạm thời mà còn giải quyết hạnh phúc lâu dài. Vì vậy, trong kinh nói “cúng dường pháp là cúng dường tối thượng, trong tất cả các sự cúng dường”.
Việc giảng dạy Phật pháp, in kinh, in sách, in băng đĩa để lưu truyền Phật pháp, hộ trì những vị hoằng pháp… tất cả những điều đó đều là phước đức không thể đo lường được.
Bản thân mình cũng vậy, có khi mình hiểu được lời Phật dạy mình thích thú, mình vui đến cả một ngày, một tháng, một năm…và có khi vui luôn cả một đời người, có khi thay đổi cả một đời người luôn. Còn mình đem cho người ta một bữa ăn, ăn xong rồi thôi, no một chút, mai đói lại liền, cho nên bố thí pháp mới đem lại hạnh phúc cho người nhận thí lâu dài, nên bố thí Pháp là tối thượng.
3. Vô úy thí
Vô úy thí là bố thí sự không sợ hãi.
Sợ chết, sợ tai nạn, sợ bất hạnh… tất cả những cái sợ đó làm cho con người không có hạnh phúc. Người tu tập là biết làm thế nào cho có đạo lực và đem đạo lực tu hành của mình để che chở cho những người có nhiều sự sợ hãi, giúp cho họ đừng sợ hãi trước những bất trắc đó.
Sự sợ hãi lớn nhất của con người là sợ chết, cho nên mình tu học như thế nào để hiểu được ranh giới của sinh tử rồi mình thực hiện trong đời sống, biết đâu là nguồn gốc của sinh tử, mình biết cắt đứt cái duyên của sinh tử để sinh tử không còn xuất hiện ở trong đời sống của mình nữa, bố thí như vậy gọi là vô úy thí.
4. Hiểu nhân duyên của nghiệp báo và chuyển hóa
Con người hoạt động được bởi những kinh mạch liên hệ với nhau, nếu kinh mạch không thông thì sẽ sinh bệnh; trời đất cũng như con người, đều có những qui luật, những mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu vi phạm những qui luật ấy thì không thể tạo ra được sự thuận hòa trong đất trời.
Vì con người tham và vô minh, do trí năng hạn hẹp, do thấy cái lợi trước mắt nên chúng ta xây dựng nhiều nhà máy thủy điện. Điều này đã ảnh hưởng và làm kinh mạch của trời đất chậm lại, tắt nghẽn. Vì vậy, con người đã chịu nhiều thiệt hại do chính trí năng mình tạo ra.
Do con người không thấy được mối liên hệ giữa mình và người, giữa mình và trời đất, giữa mình với muôn vật, giữa mình với đời này đời sau; giữa đời này với đời trước, vì không thấy được sự liên hệ như vậy, nên sinh ra nhiều sự sợ hãi.
Khi thấy trời nổi giông bão là con người bắt đầu đi khấn vái, cầu nguyện đút lót thần linh, nhưng thật ra vô ích, bởi vì mình chỉ biết khắc phục hậu quả mà không thấy nguyên nhân, nên cứ tưởng thần thánh quở trách và lại đi cầu cạnh xin xỏ, mà không biết do mình đã góp phần làm cho quy luật tự nhiên bị đảo lộn, thì cuối cùng mình phải chịu lấy hậu quả.
Giờ đây, mình phải làm thế nào để tu tập, để hướng dẫn cho người khác hiểu rõ về nhân quả nghiệp báo là cái của mình tạo ra, cho nên mình phải chịu lấy và nỗ lực chuyển hóa lấy, chứ không ai ban phát hay trừng phạt mình đâu.
Khi cộng đồng ý thức được như vậy và đều tu học để chuyển hóa hành động của mình, thì hành động của mình phù hợp với qui luật của trời đất và sự vận hành của trời đất phù hợp với mình, tạo ra thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì thế giới hòa bình.
Bây giờ mình đem sự không sợ hãi chia sẻ cho những người khác, có nghĩa là hướng dẫn cho họ hiểu nhân quả nghiệp báo, liên hệ giữa mình với mọi người, giữa mình với trời đất… khiến họ nhận ra được sự và lý của nhân duyên nghiệp quả mà tu tập, đi đến sự giải thoát nên không còn sợ hãi.
Mình sinh ra một đứa con bệnh tật, nếu mình không hiểu nhân quả, không hiểu được nghiệp báo để hóa giải thì mình sẽ buồn chán.
Ví dụ như bé R, con trai của anh chị T, chính R là sự hóa giải trong gia đình, nhờ có R như vậy, nên anh chị T mới sống với nhau dễ thương; giả sử R sinh ra thông minh giỏi giang bình thường như các đứa bé khác, thì chưa chắc anh chị T đã hạnh phúc. Đôi khi mình không hiểu thấu đáo, rồi mình cho là bất hạnh, nhưng chính sự bất hạnh đó mới tạo ra cái hạnh phúc khác để bão hòa.
Trong gia đình nào cũng có một người chịu đựng sự bất hạnh, không hình thức này thì cũng hình thức khác để có sự hóa giải.
Hiểu được như vậy, thì anh chị T lại càng thương bé R hơn và hiểu được như vậy thì mình sẽ từng bước một để tiến lên, chứ không có chi sợ hãi và mình sống rất thoải mái. Hiểu được như vậy, thì mình đem sự hiểu biết đó, sự không sợ hãi đó mà hiến tặng cho mọi người để mọi người thấy rõ, hiểu rõ nhân quả là nhân như vậy, duyên như vậy, thì quả báo như vậy.
Dưới nhà anh chị V-P, thì O Bé là chỗ hóa giải để các cháu con của anh chị V-P thành công. Mấy cháu thành công được là nhờ có O Bé, nhờ O chịu đựng và gánh vác để cho mấy cháu thành công và nếu nhận ra được điều đó, thì mấy cháu sẽ thương O nhiều hơn, vì O chịu đựng để cho các cháu vươn lên.
Hiểu được như vậy để khi đối đầu với khó khăn, mình bình thản không có chi sợ hãi, không sợ hãi, vì mình thấy được vấn đề, thấy được nhân quả nghiệp báo, thấy được sự bão hòa của cuộc sống, thấy được sự bão hòa của gia đình mình và khi thấy được như vậy, các thành viên trong gia đình mình mới biết ơn nhau và biết thương quý nhau, nếu không hiểu được điều đó, thì thị phi, được mất, hơn thua… xảy ra trong gia đình và gia đình khó mà có hạnh phúc.
5. Tác dụng của bố thí
Ngài Quán Thế Âm là vị bồ tát nổi tiếng về vô úy thí, vì tâm từ bi của ngài lớn lắm, ngài đã ôm hết tất cả những sự sợ hãi, cho nên mỗi khi chúng sanh niệm danh hiệu ngài thì sự sợ hãi lắng xuống. Vì vậy, mình phải học tập ngài làm thế nào nhận ra điều đó để sống vui, sống mạnh, sống hoành tráng, tạo ra sự không sợ hãi để hiến tặng cho người – Đó là vô úy thí.
Tài thí là làm giàu đời sống vật chất cho mình ở hiện tại và tương lai, loại bỏ tâm bỏn xẻn và tham lam nơi mình.
Pháp thí là nuôi dưỡng được chất liệu trí tuệ trong đời sống của mình và loại bỏ cái ngu dốt, ích kỷ của mình trong tương lai; mình biết mà không chia sẻ cái biết của mình cho người khác, thì sau đó mình sẽ trở thành kẻ kém cỏi và đưa tới tình trạng ngu đần.
Những người ngày nay đi xin là những người kiếp trước giàu có cực kỳ, nhưng do bần tiện quá nên hôm nay nghèo. Cho nên, đức Phật dạy “tài thí là để cho chúng sanh đã giàu lại giàu thêm và nghèo thì có cơ hội thay đổi”.
Những người hôm nay quá ngu đần, nói mười mà không hiểu một là ở kiếp trước họ thông minh cực kỳ nhưng do ích kỷ, giữ cái thông minh của mình mà không chia sẻ cho người khác nên tái sinh lại làm người ngu đần. Đức Phật sợ chúng sinh ngu đần trong tương lai nên ngài dạy bố thí pháp.
Người mà hôm nay, đụng đâu sợ đó là kiếp trước chuyên đi đe doạ, bắt nạt người khác, nên kiếp này sinh ra làm loài thỏ hay loài người nhát gan sợ hãi. Đây là hậu quả do dư báo của khủng bố đem lại.
Giờ đây mình phải thực tập ba hạnh như vậy để thành tựu được ba đức tính:
– Bố thí tài vật để thành tựu đức tính từ bi.
– Bố thí pháp để thành tựu trí tuệ.
– Bố thí vô úy để thành tựu đức tính hùng dũng.
Vì vậy, tổ chức Gia Đình Phật Tử đã dựa trên tài thí, pháp thí và vô úy thí để rút ra Bi – Trí – Dũng cho Gia Đình Phật Tử.
Rất ít người biết Bi – Trí – Dũng có gốc rễ từ đâu, kể cả một số huynh trưởng trong Gia Đình Phật Tử.
Thực sự, Bi – Trí – Dũng được rút ra từ nơi pháp hành tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Cái “Dũng” của Phật giáo không phải là cầm quân ra giữa chiến trường, đánh thắng trận này trận khác. “Dũng” ở đây là bình thản trước cái sống và cái chết, bình thản trước sự thịnh suy, bình thản trước sự khen chê.
Vì sao như vậy?
Vì đường đi, lối về đã biết, nhân quả nghiệp báo đã rõ, không than trời trách đất, không oán trách cha mẹ, không oán trách ai cả.
Giữa vũ trụ này có vô số cõi trời sắc giới, vô sắc giới, vô số thế giới, tại sao mình sinh vào thế giới này làm gì?
Mình sinh vào thế giới nào, quốc gia nào, xứ sở nào, là vì mình có liên hệ đến nhân duyên nghiệp báo với thế giới đó, với quốc gia đó và với xứ sở đó.
Như ngày hôm qua, Thầy cùng một số anh chị đi từ thiện tại Tứ Hiệp, có một Phật tử đã nói một cách hùng tráng rằng: “Chúng con ở đây không có ánh sáng Phật pháp, vì đây là nơi biên địa hạ tiện….”, đó cũng là cái “Dũng”, vị đó dám xác nhận chỗ đứng của mình, cái quả báo kém may mắn của mình để từ đó vươn lên, họ không từ chối quả báo kém cỏi, họ chấp nhận cái quả báo đó để vươn lên, đó là “Dũng”.
II- Bố thí Ba-la-mật
Bố thí Ba-la-mật là bố thí với tâm không còn chấp ngã và chấp pháp. Nếu bố thí với tâm chấp ngã, thì tâm tham, tâm sân, tâm si và tâm kiêu mạn nơi ta càng lúc càng tăng trưởng. Chính tâm ấy tạo ra sự khổ đau và thất vọng cho ta, chứ không phải ai khác. Bố thí với tâm chấp pháp, thì những tri kiến sai lầm nơi tâm ta càng lúc càng lớn mạnh, khiến ta rơi vào tà kiến và kiến thủ kiến. Chính những kiến chấp này đẩy ta đi vào bóng tối của vô minh, chứ không phải thần thánh nào xua đẩy.
Tài thí, pháp thí, vô úy thí đi từ bố thí Ba-la-mật, là sự bố thí vắng mặt sự chấp ngã, bố thí mà cảm ơn người nhận thí, đó là bố thí Ba-la-mật, vì sao cảm ơn? Nếu mình bố thí mà không có người nhận, thì hạnh bố thí của mình làm sao thành tựu được. Thường thường mình đi bố thí là vênh vang ta là kẻ bố thí, nhưng nếu không có người nhận, thì sự bố thí của mình có thành không? Cho nên người Việt Nam mình có câu rất là hay:
“Thương người như thể thương thân”.
Thương người chính là thương bản thân mình, bố thí cho người mà có người nhận tức là chính mình đang thương mình, thương những cái tốt đẹp của mình, người nhận có nghĩa là họ nhận của mình 100.000 đồng hay 200.000 đồng… giá trị vật chất rất ít, nhưng mình nhận lại ở họ giá trị tình thương, giá trị tinh thần rất nhiều.
Họ nhận nơi mình 100.000 đồng hay 200.000 đồng có thể tâm thức họ không thay đổi chi cả, nhưng mà mình đem tâm từ bi, tâm thương yêu mà hiến tặng cho họ, thì tâm thức của mình thay đổi và thành tựu về mặt giá trị tinh thần quá lớn, trong lúc người nhận chỉ thành tựu rất ít thôi, như vậy ai cảm ơn ai?
Bố thí Ba-la-mật là bố thí không còn bản ngã, biết cảm ơn người đang nhận của mình, đang nhận cho mình, đó là bố thí vô ngã, vắng mặt hoàn toàn ngã tưởng. Bố thí như vậy, đức Phật dạy là công đức vô lượng. Bố thí Ba-la-mật là bố thí vô ngã, bố thí không còn có ý niệm về ngã.
Trong chùa có thùng phước sương là vậy, nhưng cúng dường vô danh, vô ngã không phải dễ, nhiều tiền hay ít tiền đều bỏ vào thùng phước sương, có vị bỏ vào thùng phước sương dù chỉ một đồng, nhưng có thành tâm thì phước đức cũng vô lượng.
Người có trí tuệ, nếu khi thấy cúng dường công khai có lợi lạc cho chúng sinh, thì họ cúng công khai, nếu khi thấy cúng im lặng bỏ vào thùng phước sương mà có lợi cho chúng sinh thì họ cúng dường im lặng, có khi họ thấy cúng dường trực tiếp cho vị trú trì có lợi lạc cho chúng sinh thì họ cúng dường trực tiếp, có khi họ thấy cúng dường trực tiếp cho thầy Tỷ kheo mà có lợi lạc cho chúng sinh thì họ cúng dường trực tiếp cho thầy Tỷ kheo. Đó là bố thí Ba-la-mật, họ không kẹt ở nơi sự cúng dường cách này hay cách khác, nơi này hay nơi khác.
Tóm lại, Bố thí Ba-la-mật là bố thí với tâm đại bi, hoàn toàn vắng mặt mọi sự chấp thủ ngã và chấp thủ pháp. Bố thí với tâm này là lấy trí tuệ làm gốc, làm chất xúc tác, nên phước đức không thể đo lường. Hạnh bố thí này là hạnh bố thí của các vị Bồ tát Đại sĩ thường thực hành và hạnh ấy thường được chư Phật ca ngợi là hạnh bố thí tối thượng.
Đó là sự chia sẻ pháp thoại hôm nay đến Học chúng Văn Thù Sư Lợi.
445 lượt xem
Tin khác
Duyên lành hội đủ, BHD GĐPT Gia Định trang trọng tổ chức lễ kỷ niệm 60 năm thành lập BHD GĐPT Gia Định vào ngày 01.12.2024 tại chùa Như…
Năm nay, GĐPT Lâm Đồng tổ chức kỷ niệm Chu niên lần thứ 75. Trong tâm nguyện tri ân, tiếp tục truyền trao ngọn đèn vô tận cho thế hệ…
GĐPT Lâm Đồng hình thành và phát triển qua 75 năm (1949 – 2024). Khởi đầu từ Gia đình Phật Hóa Phổ Lâm Viên, thế hệ anh chị đi trước…
Vào ngày 13 tháng 10 năm 2024 (nhằm ngày 11 tháng 9 năm Canh Thìn), Phật lịch 2568, thể theo lời cung thỉnh của Ban Hướng Dẫn GĐPTVN Trên Thế…
Vào hồi 13g30 (giờ địa phương Thailand) ngày 7 tháng 10 năm 2024, Đại Hội Huynh Trưởng GĐPTVN Tại Hải Ngoại lần thứ VII, nhiệm kỳ 2024-2028 đã chính thức khai…