image

Giữa mênh mang sóng nước hồ Tây, chùa Trấn Quốc nổi bật lên như một “viên ngọc quý” khiến du khách khi bước chân vào quên hết đi dòng chảy xô bồ của cuộc sống thường nhật, hòa mình với thiên nhiên, tìm lại những giây phút tĩnh lặng của chốn thiền môn và những giá trị lịch sử văn hóa mà cha ông đã ngàn năm xây dựng.

Nằm trên một hòn đảo phía đông hồ Tây (quận Tây Hồ), chùa Trấn Quốc có lịch sử 1.500 năm, được coi là ngôi chùa lâu đời nhất ở Thăng Long – Hà Nội.
Chùa được xây dựng lần đầu vào thời vua Lý Nam Đế (541-548) ở trên bãi sông Hồng, thuộc địa phận làng An Hoa, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (phường Yên Phụ, quận Tây Hồ ngày nay). Khi đó ngôi chùa được đặt tên là Khai Quốc. Đến triều Lê Thái Tông (thế kỷ XV), chùa được đổi tên là An Quốc. Đến năm 1615, do bờ tả bãi sông Hồng bị lở đến sát nền nên ngôi chùa được dời về hòn đảo Kim Ngư nằm gần bờ phía đông của hồ Tây. Năm Canh Thân (1620), con đường dẫn vào đảo đã được hoàn thành. Chùa có tên là Trấn Quốc vào cuối thế kỷ XVII, đời vua Lê Hy Tông.

 Chùa Trấn Quốc nằm phía đông hồ Tây.

Chánh điện chùa Trấn Quốc.

Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu và mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Trong một chuyến vi hành đất Thăng Long vào năm 1821, vua Minh Mạng đến viếng chùa và ban 20 lạng bạc để tu sửa. Đến năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn, 200 quan tiền và cho đổi tên thành chùa Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời Vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.
 

Cây bồ đề đại thụ.

Cũng giống như hầu hết những ngôi chùa cổ trên đất nước Việt Nam, kiến trúc chùa Trấn Quốc gồm nhiều lớp, có nhà bái đường, nhiều tượng Phật được sơn son thếp vàng. Bố cục chùa theo kiểu “nội công ngoại quốc”, tiền đường nhìn về phía tây. Gác chuông chùa là một nhà ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục chính. Phía sau tiền đường là nhà Tam bảo.
 

Lối vào cổng chùa ngày nay. Ảnh: Sao Mai

Con đường dẫn vào cổng chùa, năm 1940.

Qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nên kiến trúc của chùa bị pha tạp phong cách kiến trúc của các thời kỳ, không còn nguyên dạng. Trong chùa có tượng Thích Ca nhập Niết bàn bằng gỗ thiếp vàng lộng lẫy và một cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng. Chùa còn có 14 tấm bia, trong đó có bia của trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính, tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1639 và 1015…

Bảo tháp Lục độ đài sen. Ảnh: Sao Mai

Đặc biệt, trong khuôn viên chùa Trấn Quốc còn có bảo tháp Lục độ đài sen được khởi công xây dựng từ 6/1998 và hoàn thành vào cuối năm 2003. Bảo tháp gồm 11 tầng, cao 15 mét, diện tích mặt sàn 10,5 mét vuông. Mỗi tầng tháp gồm 6 ô cửa vòm, có tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Tổng số tượng của tháp có 66 pho và trên đỉnh có 9 tầng đài sen cũng bằng đá quý (còn được gọi là Cửu phẩm liên hoa). Tháp được dựng đối xứng với cây bồ đề.
 
Theo thượng tọa Thích Thanh Nhã thì sự đối xứng này mang ý nghĩa: Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp.
 

Chùa Trấn Quốc xa xưa…
… và ngày nay. Ảnh: Sao Mai

Phía sau chùa có nhiều mộ tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng (thế kỷ XVIII). Cửa chùa hiện nay có ba chữ Phương Tiện môn và câu đối chữ Nôm:

Vang tai xe ngựa qua đường tục

 Mở mặt non sông đứng cửa thiền

Kiến trúc chùa Trấn Quốc có sự kết hợp hài hòa giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mông. Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, Trấn Quốc nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan, du lịch trong ngoài Việt Nam.

Người vào chùa Trấn Quốc, ngoài việc thành tâm lễ Phật còn được thăm một danh lam nổi lên thanh bình giữa phố phường ồn ào, tất bật. Năm 1989, chùa được công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia.

Nguồn: landtoday.net

436 lượt xem