1) SỰ TÍCH TÁO QUÂN

Theo người Việt Nam, Táo Quân là chức Ngọc Hoàng thượng đế trao cho ba ngươi có mối tình thâm nghĩa nặng: nàng Thị Nhi và hai chàng Trọng Cao, Phạm Lang.

Thị Nhi có chồng là Trọng Cao. Tuy ăn ở mặn nồng tha thiết với nhau, nhưng mãi không có con. Vì vậy, dần dà Cao hay kiếm chuyện xô xát dằn vặt vợ.

Một hôm, chỉ vì một chuyện nhỏ, Cao gây thành chuyện lớn, đánh và đuổi Thị Nhi đi.

Nhi bỏ nhà, lang thang đến một xứ khác và sau đó gặp Phạm Lang. Phải lòng nhau, hai người kết thành vợ chồng.

Phần Trọng Cao, sau khi nguôi giận thì quá ân hận, nhưng vợ đã bỏ đi xa rồi. Ray rứt và nhớ nhung quay quắt, Cao lên đường đi tìm vợ.

Ngày này qua tháng nọ, tìm mãi, hết gạo hết tiền, Cao phải làm kẻ ăn xin dọc đường. Cuối cùng, may cho Cao, tình cờ tìm xin ăn đúng nhà của Nhi, nhằm lúc Phạm Lang đi vắng. Nhi sớm nhận ra người hành khất thân tàn ma dại đúng là người chồng cũ của mình. Nàng mời vào nhà, nấu cơm mời Cao.

Đúng lúc đó, Phạm Lang trở về. Nhi sợ chồng nghi oan, nên giấu Cao dưới đống rạ sau vườn.

Chẳng may, đêm ấy, Phạm Lang nổi lửa đốt đống rạ để lấy tro bón ruộng.

Thấy lửa cháy, biết Cao ở trong đó, Nhi lao mình vào tính cứu Cao ra. Thấy Nhi nhảy vào đống lửa, Phạm Lang thương vợ cũng nhảy theo. Vậy là cả ba đều chết trong đám lửa.

Trên Thiên đình, Ngọc Hoàng biết cả ba người này đều thật lòng thương nhau, mới cho họ ở cùng một chỗ và làm Táo Quân, quấn quýt bên bếp lửa hồng.

Ở bếp, ngươi ta thờ hình nhân Táo Quân, nặn bằng đất sét hoặc hình giấy gồm hai người đàn ông và một người đàn bà ở giữa.

Mỗi năm vào cuối ngày 23 tháng chạp, Táo phải về trời tâu việc lành dữ cuả thế gian và chiều 30 tháng chạp lại từ cõi trời trở lại thế gian lo công viêc cũ như năm trước.

2) SỰ TÍCH ÔNG TÁO – BÀ TÁO

(hay sự tích “Ông Đầu Rau”)

Ngày xưa, có hai vợ chồng son nhà nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn. Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe được, hay hát những câu tình duyên, có khi vui vẻ quên cả cơm nước.

Một năm trời làm mất mùa, kiếm ra hạt gạo rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra khắp mọi miền. Hai vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai thuê nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông, mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào lọt. Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho ai quấy nhiễu.

Túng thế hai vợ chồng phải đi mò cua, bắt ốc hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ phần nào nhưng tình cảnh vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ vì trận đói còn có thể kéo rất dài….

Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo vợ:

– Tôi phải đi một nơi khác kiếm ăn thôi mình ạ! Không thể ở nhà rồi chết đói với nhau được.

Nghe chồng nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết có nhau. Nhưng người chồng bảo:

– Tôi chưa biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi, không nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên. Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong 3 năm nghe! Hết 3 năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác.

Người vợ khóc lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết làm sao cả đành phải để chồng ra đi.

Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. Ở đây, người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa: bữa cháo, bữa khoai. Nhờ lanh lẹn và xinh xắn nên nàng được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng.

Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bớt nhắc đến trận đói khốc liệt vừa qua. Nàng thì ngày ngày mong ngóng, mòn mỏi chờ đợi chồng về. Nhưng cây bưởi trước sân đã 3 lần trổ hoa mà chồng nàng vẫn bặt vô âm tín.

Giữa lúc ấy người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đói khổ, vừa chết vợ. Sẵn có tình cảm với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu có hiểu được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là:

– Chồng tôi hẹn tôi trong 3 năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin chắc là chồng tôi đã chết. Vậy xin hãy cho tôi để tang chồng trong 3 năm cho trọn đạo.

3 năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không tin tức cũng chẳng có một lời đồn đại về người chồng. Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên con đường cái quan mà khóc cạn khô nước mắt. Người đàn ông kia giục nàng mau quyết định:

– Một là chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập gia đình khác ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập một gia đình mới. Sức của tôi và của cải của tôi đủ bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời.

Nàng sửa lại vành khăn tang trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin rốn chờ cho một năm nữa.

Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ. Lần này nàng mới đoan quyết là chồng mình chết thật rồi. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới.

oOo

Thế mà rồi đột nhiên sau đó 3 tháng, người chồng cũ xách khăn gói trở về cố hương. Chàng không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu. Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm: “Thế là hết. Bởi số trời oan trái cả!”.

Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người trong xóm làng ngơ ngác và thương cảm. Nhất là đôi vợ chồng mới cưới thì thật là khó xử, không còn biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám gặp mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ:

– Tôi đi vắng lâu quá. Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử sự như thế là rất đúng. Tôi chỉ cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi.

Mặc dầu người vợ củ khóc lóc nài nỉ hết sức, mặc dầu người chồng mới xin được trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá vỡ hạnh phúc của họ.

Mà rồi chàng cũng không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ tâm trí chàng. Đầu óc rối như mớ bòng bong. Chàng nghĩ đến cái chết và trong một lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng.

Cái chết kinh khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng được 7 năm trời mà không ráng chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám giáp mặt? Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng.

Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi làng xóm sắp sửa cho việc đưa đám người đàn ông bạc mệnh thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh nhà.

Người chồng mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh vào đầu óc mọi người, còn riêng đối với chàng thì chưa bao giờ có một sự xúc động mãnh liệt đến thế. Chàng luôn miệng kêu to: “Tại sao ta cố ý cướp vợ của người khác?”. Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử.

Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án Âm ty để Diêm Vương để định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự thật. Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi cạnh nàng. Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu xa đối với người vợ mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau chỉ có 3 tháng mà thôi. Khi Diêm vương hỏi tình của chàng đối với người vợ cũ như thế nào thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt người đàn bà thì nàng thú thật rằng cái tình của nàng đối với chồng cũ choán một chỗ sâu rộng trong lòng mình, đồng thời đối với người chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được ơn nghĩa và tình cảm nồng nhiệt của chàng.

Diêm Vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này thật hiếm có. Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi… Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm Vương cho ba người hóa thành ba ông bếp (ông đầu rau) để cho họ khỏi ngày nào lìa nhau và để cho ngọn lửa nồng nàn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời, vua còn phong cho họ chức Táo Quân trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình một trên trần thế để mãi mãi không bị đói khát mà phải vướng vào thảm cảnh như kiếp trước.

Quang Mai "lụm lặt"

769 lượt xem