NI TRƯỞNG THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

TRONG PHONG TRÀO ĐẤU TRANH PHẬT GIÁO Ở MIỀN NAM NĂM 1963

Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp
Con xin lăn lóc cõi ta-bà

(Thơ – Thích Nữ Diệu Không).

Phong trào đấu tranh Phật Giáo miền Nam năm 1963 là một sự kiện có ý nghĩa của lịch sử Việt Nam hiện đại. Lực lượng nòng cốt của phong trào này là các vị Tăng Ni, Phật Tử với quyết tâm bảo vệ Phật pháp trước sự đàn áp và kỳ thị tôn giáo của chính quyền ông Ngô Đình Diệm. Một điều đặc biệt, phương pháp chủ đạo của phong trào là dùng bất bạo động để chống lại bạo tàn được nhiều tầng lớp khác nhau của xã hội hưởng ứng và quốc tế ủng hộ.

Trong phong trào này, Phật Giáo miền Nam đã xuất hiện nhiều vị Tăng Ni, Phật Tử không ngại hy sinh thân mình để bảo tồn đạo pháp như Hòa Thượng Thích Quảng Đức (Sài Gòn), Sư Thích Thanh Tuệ (Huế), Ni Cô Diệu Quang (Khánh Hòa), Sư Thích Tiêu Diêu (Huế), Phật Tử Mai Tuyết An (Sài Gòn)… Họ được xem là những ngọn lửa từ bi có khả năng thiêu đốt bạo lực và làm cho bạo quyền phải chùn bước, rúng động lòng người. Tiếp nối điều này, bài viết giới thiệu một nhân vật quan trọng trong phong trào đấu tranh Phật Giáo miền Nam năm 1963: Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không, bậc chân tu nổi tiếng của thiền môn xứ Huế.

“MỘT ĐỜI HƯƠNG ĐẠO RẠNG THIỀN MÔN”

Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997), tên thật là Hồ Thị Hạnh, sinh trưởng trong một gia đình quyền quý thời bấy giờ ở kinh đô Huế. Thân phụ của Ni Trưởng là Khánh Mỹ Công Hồ Đắc Trung (1861-1941) – một vị quan đại thần sống giản dị, thanh liêm, có tinh thần yêu nước. Các anh, chị, em trong gia đình được hấp thụ hai nền giáo dục cả Đông và Tây, bản thân bà giỏi chữ Hán lẫn thông thạo tiếng Pháp. Ở Huế, khi chưa xuất gia, do có mối quan hệ rộng với nhiều giới chức chính quyền, nên bà là thành viên tích cực của nhiều hoạt động yêu nước và từ thiện xã hội như ủng hộ cụ Phan Bội Châu khi bị Pháp giam lỏng ở Huế; tham gia thành lập Hội Nữ Công để cải thiện đời sống cho phụ nữ và khuyến khích dùng hàng nội; khởi xướng ra đời Hội Lạc Thiện giúp đỡ dân nghèo và gia đình các nạn nhân chiến tranh. Năm 1929, vừa muốn trả hiếu vừa thương xót bầy trẻ thơ bơ vơ mất mẹ, bà đồng ý lập gia đình với ông Cao Xuân Xang – con trai thứ của quan đại thần Cao Xuân Dục, nhưng chỉ trong vòng một năm sau (1930) thì ông mất. Rũ bỏ nghiệp duyên sớm, Bà tinh tấn học Phật.

Năm 1932, sau khi thu xếp ổn thỏa chuyện gia đình, bà bước vào cửa thiền, xuất gia tại chùa Trúc Lâm (Huế) do Hòa Thượng Giác Tiên (1879-1936) – một cao tăng của đất Thần Kinh – truyền thập giới làm Sa-di-ni với pháp tự Diệu Không, húy Trừng Hảo, đạo hiệu Nhất Điểm Thanh.

Sư Bà là một nhân vật có nhiều đóng góp cho Phật Giáo Việt Nam khoảng nửa cuối thế kỷ XX. Ở Huế, Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, Sư Bà Diệu Không còn nổi tiếng là vị Ni Trưởng thông tuệ, tính cách mạnh mẽ, nhiệt tâm vì đạo pháp, lối sống giản dị, có đức độ và đạo hạnh thanh cao, nhất là luôn tôn trọng Bát Kỉnh Pháp, tận tình giúp đỡ người nghèo khó nên rất được nhiều người kính mến. Ngay sau khi xuất gia, Sư Bà cùng Hòa Thượng Giác Tiên lập An Nam Phật Học Hội để chấn hưng, truyền bá Phật Giáo. Ni Trưởng còn có công xây dựng nhiều Ni Viện: Diệu Đức (Huế), Hồng Ân (Huế), Kiều Đàm (Huế), Liên Trì (Huế), Bảo Thắng (Hội An), Bảo Quang (Đà Nẵng), Tĩnh Nghiêm (Quảng Ngãi), Diệu Quang (Nha Trang), Diệu Giác (Sài Gòn)… và các Ni Trường để đào tạo cho Ni Chúng như Từ Nghiêm, Dược Sư, Diệu Tràng ở Sài Gòn, Diệu Pháp ở Long Thành (Đồng Nai)… Ngoài ra, Trường Đại Học Vạn Hạnh, Học Viện Phật Giáo tại Huế còn lưu lại nhiều đóng góp của Sư Bà Diệu Không.

Tuy bận bịu nhiều công việc Phật sự, với tấm lòng từ bi trước tình cảnh nhiều trẻ mồ côi giữa thời loạn lạc chiến tranh, Sư Bà đã đứng ra thành lập nhiều cô nhi viện trên khắp các tỉnh miền Trung.

Ngoài việc chuyên tâm nghiên cứu kinh điển, Ni Trưởng còn dành thời gian phiên dịch nhiều bộ kinh từ tiếng Pali sang tiếng Việt rất có giá trị: Thành Duy Thức Luận, Du Già Sư Địa Luận, Đại Trí Độ Luận, Lăng Già Tâm Ấn… Sư Bà còn để lại nhiều bài thơ có giá trị trong việc đề cao vai trò người phụ nữ, nhấn mạnh đạo lý Á Đông, cổ vũ tinh thần dân tộc cũng như sự vi diệu của Phật pháp.

Ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu (1997), tại chùa Hồng Ân (Huế), Sư Bà Diệu Không viên tịch trong sự thương tiếc của môn đồ pháp quyến cũng như Tăng Ni, Phật Tử cả nước. Bảo tháp của Ni Trưởng tọa lạc trên ngọn đồi thông mát rượi trong khuôn viên chùa này.

Hiện tại, ở thành phố Huế có con đường mang tên Thích Nữ Diệu Không như là sự ghi nhớ của thế hệ sau về những đóng góp cho đạo pháp và dân tộc của người nữ tu làm rạng danh miền sông Hương núi Ngự[1].

“CON XIN LĂN LÓC CÕI TA-BÀ”

Lấy lý do không đồng tình với việc treo cờ nhân ngày Phật Đản năm 1963 của Tăng Ni, Phật Tử Huế, chính quyền ông Ngô Đình Diệm đã tiến hành triệt hạ cờ Phật Giáo. Việc làm này gây bất bình cho phần lớn người dân ở Huế khi ấy. Ngày 7-5-1963, phái đoàn Phật Giáo do hai vị cao tăng là Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết và Thích Giác Nhiên dẫn đầu đến tư dinh tỉnh trưởng để phản đối đã làm xúc động đồng bào Phật Tử nơi đây. Tối ngày 8-5-1963, tại Đài Phát Thanh Huế, binh lính dùng súng và lựu đạn tấn công đoàn người đến đòi giải trình việc không phát chương trình phát thanh của Phật Giáo. Máu đã đổ và phong trào đấu tranh Phật Giáo bắt đầu diễn ra và lan rộng cả miền Nam sau đó với nhiều hình thức như biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu… làm đau đầu chính quyền ông Ngô Đình Diệm. Đỉnh điểm của phong trào là sự kiện Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn vào ngày 11-6-1963 làm chấn động quốc tế. Lúc này, giới Phật Giáo miền Nam tiếp tục đấu tranh; trí thức, sinh viên biểu tình phản đối liên tục, còn dư luận quốc tế thì lên án mạnh mẽ. Thế nhưng, vào ngày 20-8-1963, chính quyền ông Ngô Đình Diệm tấn công một số chùa chiền quan trọng và bắt giữ các vị Tăng Ni lãnh đạo phong trào, Phật Tử, cùng một số sinh viên ở Huế và Sài Gòn. Không lâu sau đó, ngày 1-11-1963, ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu bị tướng tá dưới quyền đảo chánh và cả hai bị bắn chết. Người bị giam được thả ra và phong trào kết thúc.

Trong suốt giai đoạn Pháp Nạn này, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không, với hạnh nguyện “Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp, con xin lăn lóc cõi ta-bà” không hề lay chuyển, đã gắn bó mật thiết với phong trào ở cả Huế và Sài Gòn tại những thời khắc lịch sử. Súng đạn, xe tăng, nhà tù và mưu mô của thế lực bạo tàn đã không ngăn nổi lòng quyết tâm của bậc chân tu vốn thấm nhuần tinh thần “vị pháp vong thân” trong lúc đạo pháp gặp hiểm nghèo, chông chênh và đồng bào đang rên siết. Một số hoạt động tiêu biểu cũng như phong thái nổi bật của Sư Bà Diệu Không được thể hiện như sau:

– Thứ nhất, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không là người đầu tiên xin tự thiêu để chống lại sự kỳ thị Phật Giáo của chính quyền ông Ngô Đình Diệm. Trong quyển hồi ký của mình, Sư Bà đã thuật lại như sau:

.Một hôm, tôi được mời về Từ Đàm họp. Thượng Tọa Trí Quang nói:

– Miền Nam im lìm vậy, làm sao có đông Tăng Ni hưởng ứng?

Thượng Tọa Thiện Minh:

– Phải có người hy sinh mới xong.

Tôi nói:

– Hy sinh đây là chết phải không?

Thượng Tọa Trí Quang đáp là:

– Phải.

– Vậy tôi xin đứng đầu đội cảm tử cho.

Hòa Thượng Thiền Tôn hỏi:

– Hòa Thượng Mật Hiển đại diện cho Trúc Lâm có cho phép không?

Hòa Thượng Mật Hiển:

– Vị pháp hy sinh ai lại dám cản.

Thế là một bức thư viết cho miền Nam và một tờ phát nguyện được ký tên vào.[2]

Sau sự kiện này, Sư Bà Diệu Không cùng người chị ruột của mình – Sư Bà Diệu Huệ bay vào Sài Gòn để chuẩn bị tự thiêu. Tại Sài Gòn, Tăng Ni, Phật Tử đều tán thán, cảm phục hành động của hai vị nữ tu này. Khi đang nghỉ ngơi tại chùa Từ Nghiêm, Sư Bà được mời về chùa Ấn Quang và Hòa Thượng Thích Thiện Hoa – Phó Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo báo tin Hòa Thượng Thích Quảng Đức sẽ thay Sư Bà Diệu Không tự thiêu. Nhưng Ni Trưởng vẫn quyết tâm thực hiện mong muốn của mình[3]. Ngày 11-6-1963, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Nghe tin này, bà không khỏi cảm động và viết một bài thơ Khóc Ngài Quảng Đức để bày tỏ tấm lòng của mình[4].

Qua việc xin tự thiêu cũng như quyết tâm của Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không đã cho thấy niềm tin vững mạnh vào Phật pháp, đặc biệt là tinh thần vô ngã, chẳng màng đến thân thể. Phật Giáo gọi đây là hạnh bố thí ba-la-mật của Bồ-tát. Trong 10 hạnh bố thí này có hạnh “Nhờ bố thí máu thịt, Bồ-tát được đầy đủ tất cả thân mạng bền vững, bảo hộ, nuôi dưỡng thiện căn chân thật cho tất cả chúng sinh[5]. Còn theo Nhập Bồ Tát Hạnh của Đại Sư Tịch Thiên (Shantideva), để gìn giữ tâm bồ-đề của một vị Bồ-tát thì cần phải: “Con đã đem thân này hoan hỷ bố thí cho chúng sinh, nên để họ tha hồ đánh chửi giết hại. Dù họ có đem thân con ra làm trò cười, xúc phạm, chê bai, con cũng coi như không. Đã thí xả thân này thì đâu còn gì để quý tiếc? Tất cả những việc làm vô hại mà lợi ích cho hữu tình, con đều sai khiến thân này làm hết. Nguyện cho ai trông thấy con đều được nhiều lợi lạc[6]. Vì vậy, giữa lúc Phật Giáo bị chính quyền ông Ngô Đình Diệm đàn áp, để bảo vệ chánh pháp và trưởng dưỡng tín tâm của Tăng Ni, Phật Tử thì cần có người phát đại nguyện của Bồ-tát hy sinh thân mình trong tinh thần từ bi, ôn hòa. Sư Bà Diệu Không nói riêng và các vị Tăng Ni, Phật Tử nói chung tình nguyện hoặc tham gia tự thiêu đã thể hiện rõ lý tưởng Bồ-tát đạo, nhập thế một cách tối đa chỉ vì đạo pháp, vì dân tộc như những dòng hồi ký mà Ni Trưởng đã ghi: “Vì sống dưới chế độ bất công, thiên vị nên chúng tôi muốn cúng dường thân này để kêu gọi lẽ phải của loài người trở lại với lương tri, đừng dùng thế lực mạnh mà đàn áp kẻ yếu[7]. Do đó, những sự kiện này là một biểu hiện rõ nét về tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam. Ngoài ra, đây là thể hiện được cái dũng của người học Phật – trong đó có Ni Trưởng – trên con đường tiến tu giải thoát.

– Thứ hai, tham gia vào phong trào đấu tranh Phật Giáo miền Nam năm 1963, cùng với nhiều vị Tăng Ni khác, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không còn đứng bên cạnh và ủng hộ cho các hoạt động đấu tranh của Đoàn Sinh Viên Phật Tử của Đại Học Huế. Theo Nguyễn Đắc Xuân, vào ngày 17-3-1963, tổ chức này được thành lập tại chùa Từ Đàm với 34 thành viên. Những người lãnh đạo gồm: Hoàng Văn Giàu, Võ Văn Thơ, Thái Thị Kim Lan, Phan Đình Bích. Vì thế, trong suốt năm 1963, phong trào đấu tranh của Phật Giáo tại Huế, bên cạnh các vị Tăng Ni uyên thâm, đạo hạnh, còn có một lực lượng trẻ có học, nhiệt huyết, năng nổ tham gia tích cực[8]. Gắn bó với Đoàn Sinh Viên Phật Tử của Đại Học Huế là các Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Mật Hiển… Các vị này đã định hướng các hoạt động của sinh viên theo phương pháp bất bạo động, tránh sự cố đáng tiếc xảy ra. Như một người mẹ, người chị, Sư Bà Diệu Không gắn bó thường xuyên với họ để ủng hộ, tiếp tế, trợ lực về tinh thần trong lúc biểu tình, tuyệt thực gặp khó khăn và trở ngại. Thái Kim Lan nhớ lại: “Một lần trong thời pháp nạn, chúng tôi ngồi tuyệt thực giữa sân chùa trong cơn nóng rát lưng tháng 5 ở Huế. Nóng, khát làm tê dại châu thân. Lại thêm mặt trời buổi trưa chói lói đến phải nhắm nghiền mắt, hào hển thở, gục mặt trong nón lá cơ hồ ngất lịm. Bỗng có ai sờ lưng với cái vuốt êm mát của một bàn tay thật dịu dàng, tôi nhìn lên, thấy một cái nón rộng vành hầu như che hết cả thân mình, sau dải nón màu lam, có một nét cười mỉm, rất hiền, một tay đưa cho tôi bát nước trong. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp, sau này mới biết vị sư ấy là Sư Bà Diệu Không. Trước đó tôi chưa lên chùa thường xuyên nên chẳng biết rõ ai là ai. Chỉ biết từ lúc cái nhìn ngước lên, có hiện hữu “một người”, mà “một người ấy” xuất hiện vô cùng nhẹ nhàng, như một cái bóng phất phơ[9].

Với tinh thần dũng cảm của mình, Ni Trưởng đã trực tiếp ủng hộ, tiếp tục lăn xả với phong trào đấu tranh của Tăng Ni, Phật Tử tại Huế mà không chút do dự, sợ hãi trước xe tăng, súng ống, dùi cui… Sư Bà xuất hiện như nguồn động viên to lớn, an ủi họ bước tiếp và sẵn sàng chia sẻ khó khăn. Đó là hạnh từ bi của một bậc chân tu.

– Thứ ba, xuyên suốt phong trào đấu tranh của Phật Giáo miền Nam năm 1963, Sư Bà Diệu Không lúc nào cũng thể hiện thái độ quyết liệt, mạnh mẽ với chính quyền ông Ngô Đình Diệm. Tiêu biểu nhất là việc Ni Trưởng cùng Sư Bà Diệu Huệ tổ chức cuộc họp báo từ bỏ Nguyễn Phúc Bửu Hội – con trai của Sư Bà Diệu Huệ lúc người chưa xuất gia, đồng thời là người ủng hộ việc đàn áp Phật Giáo của ông Ngô Đình Diệm. Ông Bửu Hội là nhà khoa học có uy tín quốc tế, từng tốt nghiệp tiến sĩ ở Pháp, được bổ nhiệm làm Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Liên Hiệp Quốc thời đó. Trong lần tiếp xúc phái đoàn của Liên Hiệp Quốc tại chùa Từ Đàm Huế, Ni Trưởng trả lời thẳng thắn:

Hỏi:

Nếu ông Bửu Hội đứng về phe ông Diệm. Các bà nghĩ sao?

Đáp:

Thì chúng tôi sẽ từ nó, không nhận nó là con, là cháu trong gia đình chúng tôi nữa vì gia đình chúng tôi là Phật Tử cả.[10]

Vốn có tính cách mạnh mẽ, nên Sư Bà Diệu Không đã nói là làm. Theo lời kể lại của nhà sư Thích Thiện Châu thì: “Trong những ngày Pháp Nạn, bà đã cải trang giấu mình lại làm bà Cao Xuân Xang cùng Sư Bà Diệu Huệ vào Sài Gòn để mở cuộc họp báo “từ” ông Bửu Hội vì ông Bửu Hội theo ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu chống lại Phật Giáo. Khi trở về Huế, Sư Bà bị bắt. Tôi đánh giá chuyện Sư Bà vào Sài Gòn họp báo trong những ngày tranh đấu của Phật Giáo, và họp báo để “từ bỏ” giáo sư Bửu Hội là con của mình, là một việc làm rất có ý nghĩa, lay động đến trái tim của các bà mẹ Việt Nam lúc bấy giờ. Cho nên sự việc đó thấm sâu vào lòng các bà mệnh phụ phu nhân. Các bà vợ tướng tá lúc đó đều có cảm tình với Sư Bà. Đó là một chuyện rất lớn làm đau đầu chính quyền bấy giờ, cũng như chuyện ngài Thích Quảng Đức tự thiêu với quả tim bất diệt làm rung động trái tim thế giới[11]. Cũng sự kiện này, về sau, Nguyễn Đắc Xuân được Sư Bà Diệu Không kể lại một điều bí mật mà ở thời điểm đó ít ai được biết: “Về sau này, tôi hỏi Sư Bà Diệu Không chuyện tháng 7 năm 1963 sinh viên không được biết là chuyện gì? Sư Bà bảo: “Đó là chuyện Bửu Hội lợi dụng vai trò Đại Sứ của chính quyền ông Diệm, đã bí mật giúp đem ra thế giới hàng chục kí-lô hồ sơ của Phật Giáo. Nhờ thế mà Liên Hiệp Quốc, Tích Lan, Hoa Kỳ biết rõ cuộc đàn áp Phật Giáo của chính phủ ông Diệm”. Thật lòng, sau khi Sư Bà cho biết như vậy tôi hơi ân hận. Vì đã có nhiều lần chúng tôi lên án Giáo Sư Bửu Hội rất dữ dội[12]. Một lần nữa, Sư Bà Diệu Không đã thể hiện cái dũng của người tu với thế lực cầm quyền, nhưng đặc biệt ở lần này chính là người thân của mình.

– Thứ tư, trong phong trào đấu tranh của Phật Giáo miền Nam năm 1963, trước những tình thế hiểm nghèo, trực tiếp đối diện với thế lực của chính quyền ông Ngô Đình Diệm, Sư Bà Diệu Không vẫn giữ được phong thái tự tại, bình thản nhưng rất linh hoạt và khôn khéo làm cho đối phương phải nể phục. Ngày 20-8-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu cho cảnh sát tấn công các chùa chiền và bắt giữ Tăng Ni, Phật Tử tại các chùa ở Huế (Từ Đàm, Diệu Đế, Linh Quang…) và Sài Gòn (Xá Lợi, Ấn Quang…), trong đó có những vị lãnh đạo phong trào. Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không kể lại tình hình của mình khi ấy:

Tôi vẫn còn nhớ khi các cấp lãnh đạo ở chùa Từ Đàm Huế bị bắt, các vị ở chùa Xá Lợi bị đem giam, Thượng Tọa Trí Quang được Đại Sứ Mỹ cho tá túc. Tinh thần Phật Tử sa sút. Chỉ còn mình tôi bị sót ở ngoài vì hôm ấy tôi bị đau không ra Từ Đàm được. Mấy ngày sau đó tụi lính đi lùng, tôi ngồi trì chú Đại Bi ở trước bàn thờ Phật của chùa Hồng Ân. Một số trong bọn chúng biết mặt tôi, thấy tôi ngồi nhắm mắt chúng nói với nhau: “Chính bà ấy đó”, nhưng có người khác lại nói: “Anh ngu lắm, bà ấy đâu dám ngồi đó, phải đi tìm khắp các hang các hố, chắc bà ta trốn đó”. Lúc bấy giờ, tôi chỉ còn cách nhờ Phật che chở bằng lối trì chú Mật Tôn, mà thật đã năm ngày như vậy nó vẫn chưa bắt được tôi. Sau bọn chúng dọa các cô trong chùa bảo tìm cho ra bà ấy, nếu không thì giam các cô hết. Tôi phải nói với chúng hãy về chùa Diệu Đức vào ngày mai lúc 9 giờ sáng sẽ gặp. Hôm sau, khi một chiếc xe jeep và hai tên lính đến chùa, tôi bảo: “Anh hãy đọc bản án bắt tôi vì tội gì, tôi mới đi, nếu không hai anh đem súng dẫn tôi đi với một người nữa”. Chúng nó về trình lại. Ông Ngô Đình Cẩn nói: ”Bà ấy lôi thôi, chắc lại muốn lấy bằng cớ gởi qua Liên Hiệp Quốc chứ gì”, và cho người hẹn tôi vào chùa Thuyền Tôn gặp, ông sẽ ghé đó nói chuyện. Nhân có Hòa Thượng Thuyền Tôn, tôi nói: “Hành động của hai ông bà Ngô Đình Nhu làm cho dân bất phục quá rồi!”. Ông Cẩn hứa xin thả hết Tăng Ni, còn cấp lãnh đạo đã đem vào Sài Gòn hết rồi, trừ thầy Đôn Hậu còn nằm tại nhà thương[13].

Lần này, không chỉ đối đầu với cảnh sát mà Sư Bà còn trực tiếp tranh luận với ông Ngô Đình Cẩn – một nhân vật khét tiếng, ai cũng phải sợ ở miền Trung bấy giờ. Trong tình cảnh nguy hiểm như vậy, Ni Trưởng vẫn giữ được bình tĩnh để đối mặt với tất cả và họ đã không dám làm hại, thậm chí còn e dè kiêng nể. Có được như vậy chính là từ định lực của bậc chân tu, nhờ tín tâm vào sự hộ trì của Tam Bảo. Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang, Định là: “Tâm chuyên chú vào một đối tượng, đạt đến tác dụng tinh thần không tán loạn hoặc chỉ cho trạng trái vắng lặng của tâm thức….[14]. Trong Lục Độ – sáu bước tiến tu giải thoát của người học Phật – Thiền Định là bước thứ 5 và ai đạt điều này sẽ tiếp tục đi đến bước cuối cùng là Trí Huệ. Sư Bà Diệu Không, tâm vốn an nhiên tự tại, đã chọn nơi nguy hiểm nhất, dễ tìm ra nhất trở thành nơi an toàn nhất cho mình. Đó là trí tuệ của người ngộ đạo. Trong kinh Pháp Cú, đức Phật nói rõ: “Người nào thành tựu các giới hạnh, hằng ngày chẳng buông lung, an trụ trong chính trí và giải thoát, thì ác ma không thể dòm ngó được[15]. Một lần nữa, trong cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật Tử Huế vào năm 1966, Sư Bà Diệu Không đã thể hiện sự thông minh, bản lĩnh hiếm có để bảo vệ Sư Cô Thích Nữ Trí Hải – một đệ tử xuất sắc của mình, khi Nguyễn Ngọc Loan – Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia của chính quyền Sài Gòn tuyên bố, ra Huế y sẽ bắt hiếp Sư Cô Trí Hải – người phiên dịch tiếng Anh của nhà sư Thích Trí Quang – trước mặt cho mọi người biết tay. Biết thế nên Sư Bà Diệu Không đã gởi Sư Cô Trí Hải vào nhà một người Phật Tử bà con của Nguyễn Ngọc Loan, nên khi Nguyễn Ngọc Loan ra Huế không tìm được Sư Cô Trí Hải để gây tội ác[16]. Cũng vì thế, nhà sử học Chương Thâu đã có nhận định sâu sắc về phong cách của Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không như sau: “Cái hay nhất trong cách sống của Diệu Không là bình dị, chất phác, chân thành mà thu được kết quả. Kẻ địch tàn bạo, Diệu Không không làm gì cả, chỉ xử sự một cách bình thường, vậy mà Ni Sư vẫn thu được thắng lợi vẻ vang, vẫn hoàn thành được việc “cứu nhân độ thế””[17].

“HƯƠNG XƯA NAY VẪN HÃY CÒN”

Trong quyển Hồi ký Đường Thiền Sen Nở, Sư Bà Diệu Không hồi tưởng lại phong trào đấu tranh của Phật Giáo miền Nam năm 1963: “Nhớ lại cuộc đấu tranh mà rùng mình, nào là lưỡi lê, dùi cui đập lên đầu người. Các vị Tăng, Ni bị ngã gục, nhịn đói, tù tội vẫn hy sinh không nao núng, tiến bước đi lên…[18]. Trong cơn cuồng phong bão táp của chính quyền ông Ngô Đình Diệm gây ra khi ấy, Ni Trưởng vẫn hiên ngang, không hề nao núng, như thạch trụ tùng lâm vững chắc bảo vệ Phật pháp, sát cánh cùng Tăng Ni, Phật Tử và đồng bào vượt qua nhiều chông gai, nguy hiểm. Làm được như vậy, phải chăng là nhờ Sư Bà Diệu Không có được tài sản Bi, Trí, Dũng của người học Phật?

Như cánh chim nhạn bay giữa lưng trời chẳng mong để lại dấu vết, càng nói nhiều, càng ca ngợi về Sư Bà Diệu Không là càng không hiểu và ngược lại với phẩm chất thanh cao, giản dị của một vị Ni Trưởng vốn khiêm cung, giản dị. Nhưng, trong kinh Pháp Cú, đức Phật đã dạy rằng: “Hương của các loài hoa chiên đàn, đa-già-la hay mạt-lị đều không thể bay ngược gió, chỉ có mùi hương đức hạnh của người chân chính, tuy ngược gió vẫn bay khắp muôn phương[19]

— oOo —

CHÚ THÍCH:

[1] Phần viết này được tổng hợp từ các tài liệu:

  • Đường Thiền Sen Nở (hồi ký) – Sư Bà Thích Nữ Diệu Không.
  • Kỷ Yếu Tang Lễ Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không – Tỉnh Hội Phật Giáo Thừa Thiên – Huế.
  • Từ Quận Chúa Hồ Thị Hạnh Đến Sư Bà Diệu Không – Nguyễn Khắc Phê.

[2] Đường Thiền Sen Nở – Thích Nữ Diệu Không.

[3] Trong quyển hồi ký của mình, Sư Bà Diệu Không thuật lại như sau: “Không ngờ khi chư Tăng về đến Ấn Quang thì Hòa Thượng Thiện Hoa cho gọi tôi và dạy rằng: “Bà không được chết, đã có ngài Quảng Đức đảm nhiệm”. Tôi bạch: “Hiện ngài ở đâu?”. Khi lên phòng trên, tôi thấy ngài đắp y đang đi xuống. Tôi theo hầu phía sau và xin cho con được như nguyện. Ngài dạy: “Chư Tăng đã định rồi, không cãi lại được”. Tôi thưa lần nữa, ngài quở và dạy: “Ni phải y Tăng, sao con lại cãi lại lời?”, và dạy tiếp: “Để thầy thực hiện trước, khỏi nhục thể cho Tăng-già, chư Tăng đã định con phải sống để phụng sự đạo. Con nên rõ 5 phút tự thiêu tuy khó mà dễ, còn duy trì Phật Giáo tương lai ngàn năm mới khó làm. Con nên ráng sống cho đạo, còn thầy năm nay đã 72 tuổi rồi, hy sinh là phải hơn”. Nói xong thấy tôi khóc, thầy bảo vào lạy Phật và cho con xuống để thầy còn tụng kinh. Tôi lạy Phật xong, cúi lạy thầy ba lạy và đi về”. Nguồn: Đường Thiền Sen Nở – Thích Nữ Diệu Không.

[4] Bài thơ như sau:

“Thầy ơi! Con biết tính sao đây Lễ kính lòng đau trước thánh thây Lửa dậy lưng trời, thân chẳng động Dầu loang khắp đất, ý không lay Tiêu diêu cõi Tịnh, Thầy theo Phật Lận đận trần lao con nhớ Thầy Phật Tử Việt Nam còn nhớ mãi Nét son lịch sử vẫn không phai”.

Nguồn: Đường Thiền Sen Nở – Thích Nữ Diệu Không.

[5] Thiện Ác Nghiệp Báo Chư Kinh Yếu Tập – Thích Nguyên Chơn chủ biên.

[6] Nhập Bồ Tát Hạnh (Shantideva) – Tịch Thiên (Thích Nữ Trí Hải dịch).

[7] Đường Thiền Sen Nở – Thích Nữ Diệu Không.

[8] Từ Phú Xuân Đến Huế (tự truyện) – Nguyễn Đắc Xuân.

[9] Xem Bốn Bức Tranh Quán Thế Âm Nhớ Sư Bà Diệu Không – Thái Kim Lan.

[10] Đường Thiền Sen Nở – Thích Nữ Diệu Không.

[11] Sư Bà Diệu Không – Niềm Tin Của Phật Tử Huế. (trong Kỷ Yếu Tang Lễ Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không) – Thích Thiện Châu.

[12] Sư Bà Diệu Không – Một Kỳ Nữ Của Cố Đô Huế Thế Kỷ XX – Nguyễn Đắc Xuân.

[13] Đường Thiền Sen Nở – Thích Nữ Diệu Không.

[14] Từ Điển Phật Học Huệ Quang – Thích Minh Cảnh (chủ biên).

[15] Lời Phật Dạy Thích Thiện Siêu (dịch).

[16] Từ Phú Xuân Đến Huế – Nguyễn Đắc Xuân.

[17] Đường Thiền Sen Nở – Thích Nữ Diệu Không.

[18] Đường Thiền Sen Nở – Thích Nữ Diệu Không.

[19] Lời Phật Dạy Thích Thiện Siêu (dịch).

Thạc Sĩ DƯƠNG HOÀNG LỘC


Sư Bà Diệu Không và Ni Trưởng Bảo Nguyệt

1404 lượt xem