Xưa, trong núi tuyết, có một con bạch tượng vương có 6 ngà, là chủ một bầy voi gồm 2 vạn con. Tượng vương có 2 vợ, một già một trẻ, mỗi khi đi đâu đều có 2 bà vợ kèm theo 2 bên.

           Một hôm tượng vương đi dạo chơi, giữa đường gặp một cây lớn có hoa đẹp. Tượng vương muốn hái hoa ấy để tặng cho 2 bà vợ làm vật trang sức, liền lấy vòi rung cây, chẳng biết gió thổi làm sao mà hoa chỉ rơi trên mình bà vợ lớn, còn bà nhỏ vì ở ngược gió nên chẳng được đóa hoa nào. Do đó, bà nhỏ sinh lòng thù hận, cho là tượng vương có ý thiên vị. Lại một lần nữa, trong ao nơi chỗ tượng vương ở có một đóa hoa sen 1000 cánh màu kim, một con voi trong bầy hái hoa sen ấy đem dâng tượng vương; tượng vương lại chuyển tặng hoa đó cho bà lớn cài lên đầu, vì vậy, bà nhỏ càng căm thù tột độ và muốn ám hại tượng vương.

          Trong núi tuyết có nhiều người tu hành, bà nhỏ thường thường hái trái cúng dường cả trăm vị Tích Chi Phật. Thế rồi, một ngày nọ, bà leo lên chỗ cao hiểm của một ngọn núi và tự thệ nguyện: Nguyện đem công đức cúng dường các vị Tích Chi Phật, xin cho tôi sau khi chết được sinh vào nhà giàu sang quyền thế, tự biết được kiếp trước của mình để sát hại tượng vương. Nói xong, liền gieo mình xuống núi tự sát. Thân trung ấm đầu thai làm con gái của một nhà trưởng giả, vừa đẹp vừa thong minh xuất chúng. Vì thế, khi trưởng thành, cô được quốc vương chọn làm vợ và rất sủng ái. Bà (đệ nhất phu nhân – vợ vua) thầm nghĩ: nay chính là cơ hội tốt để ta trả mối thù xưa! Rồi bà lấy hạt dành dành bôi vàng mặt mũi và giả vờ đau. Vua vào hỏi, bà nói: “Đêm qua thiếp nằm mộng thấy con voi có 6 ngà, thiếp muốn bệ hạ lấy cho thiếp ngà đó để làm cái thoa cài đầu, nếu không, bệnh thiếp sẽ càng ngày càng nặng…” Nhà vua vì vốn sẵn lòng yêu quí vợ nên không dám trái ý, liền cho triệu tập hằng trăm tay săn bắn giỏi trong nước lại và hỏi: “Các ngươi có trông thấy trong núi có con voi trắng 6 ngà không?” Các thợ săn liền tâu là chưa từng thấy. Nhà vua tỏ vẻ không hài lòng, nên khiến phu nhân hỏi, các thợ săn cũng trả lời như thế. “Phải, lời phu nhân, ở quanh vùng núi gần đây không có bạch tượng vương. Nay ta muốn biết trong đám thợ săn các ngươi ai là người can đảm và biết chịu khổ nhất?” “Tôi,” một trong số các người ấy quì xuống trả lời như vậy. Phu nhân liền trao cho anh ta một vạn lượng vàng, móc sắt, búa, rìu, một chiếc áo cà sa và bảo: “Ngươi hãy đi thẳng vào núi tuyết, trên đường đi sẽ gặp đại thọ, hai bên có đại mãng xà không thể tới gần được, phải dùng búa đục khoét cây để lòn qua. Cứ vậy đi tới sẽ thấy hồ nước lớn, quanh hồ có nhiều cây, ngươi lấy móc sắt móc vào cành cây và cứ thế từ cành nầy chuyền qua cành khác, tiến dần tới chỗ bạch tượng ở.  Khi đến nơi, nên quan sát rõ chỗ ăn nghỉ của nó, rồi đào hầm gần đó ẩn núp, đợi lúc nào bạch tượng đến sẽ dùng tên độc mà bắn. Nhưng để được an toàn, ngươi nhớ phải mặc ca sa trong suốt thời gian rình bắn, vì bạch tượng tôn phụng Tam Bảo sẽ không giết hại người mặc pháp phục.”

            Nghe xong những lời dặn dò của phu nhân, người thợ săn liền vội vã lên đường và phải trải qua một thời gian khá lâu mới tới được chỗ ở của bạch tượng. Anh ta đào hầm, trốn vào trong đó, không bao lâu thì tượng vương trở về và bị anh bắn bằng tên độc. Tượng vương đoán biết mũi tên kia không phải từ xa bắn đến, nên dùng vòi lục lọi xung quanh mình và thấy anh thợ săn đang núp trong một cái hầm gần đó, liền hỏi: “Anh là ai?” Chàng thợ săn vì quá sợ nên thú thật rằng: “Tôi là người được người ta thuê đến…” Tượng vương lập khắc biết đó là ý đồ của phu nhân, liền tự nhổ cả 6 cái ngà của mình, đưa cho anh thợ săn và bảo: “Anh hãy đi ngay, đừng có chần chờ, sợ bị các con voi khác sẽ giết hại anh." Nói xong, tượng vương dùng uy thần của mình che chở cho anh thợ săn và đưa anh ra khỏi rừng…

            Về tới cung, anh thợ săn đem 6 chiếc ngà dâng lên phu nhân. Bà nhìn đi ngắm lại rất kỹ, vừa mừng vừa ân hận, chẳng bao lâu hộc máu mà chết.

            Ngày đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài đang thuyết pháp cho thiên long quỉ thần và bốn chúng đệ tử nghe, trong số thính giả ấy có một sư bà (đại tỳ kheo ni), nhìn đức Phật rồi phá lên cười, chốc lát lại òa lên khóc, mọi người đều lấy làm lạ! A Nan bạch đức Phật: “Tại sao sư bà nầy lại chứng được quả La Hán? Vì sao bà lại vừa vui vừa buồn một cách thất thường như thế? Xin Ngài giải thích cho chúng con hay”.

            Đức Phật nói với A Nan: “Bạch tượng vương là tiền thân của ta, bà lớn (Phu nhân) nay là Cù Di (GOPIKÀ) – tức là Gia Du Đà La – bà nhỏ (tiểu phu nhân) nay chính là vị sư bà đó; nhờ có thần thong biết được kiếp trước, sở dĩ buồn khóc là vì tâm ưa gây sự, sở dĩ vui cười vì đã từng hãm hại người hiền lương mà lại chứng đạo”. Vì thế, các giới thính giả có mặt hôm đó đều nghĩ rằng: gây ác nhân với đức Phật mà còn được độ thoát, huống nữa là tạo thiện nhân… Do đó, mọi người đều phát vô thượng tâm, nguyện cứu độ tất cả 10 phương chúng sinh.

(Kinh Tạp Thí Dụ)

2433 lượt xem