KHÁI QUÁT VỀ PHÁP AN CƯ


Hình minh họa


Lâu nay, Anh chị em GĐPT chúng ta, luôn nghe nhiều về Pháp An Cư của Tăng, nhưng chưa được tìm hiểu về ý nghĩa của Pháp này. Hôm nay, nhân trong bài viết này, trong tinh thần giới hạn của giới luật cho phép, tôi xin giới thiệu khái quát về Pháp An Cư để chúng ta có thể hiểu một cách đại cương.

Danh từ “An cư kiết hạ” xuất phát từ Phạn ngữ Vãrsika, Varsa; Pali ngữ: Vassa (có nghĩa là mùa mưa; vassavàsa: an cư mùa mưa); Hán ngữ: Hạ An Cư, Vũ An Cư, Toạ Hạ, Hạ toạ, Kiết Hạ, Toạ Lạp, Nhất Hạ Cửu Tuần, CửuTuần Cấm Túc, Kiết Chế An Cư…. Dịch ý là vũ kì (thời kì mưa). Là một trong các chế độ tu hành. Thời kì mưa ở Ấn Độ kéo dài suốt ba tháng mùa hạ. Trong ba tháng này, người xuất gia không được đi ra ngoài mà phải tập trung ở yên một chỗ, dốc sức tu hành để đạt các Thánh quả, gọi là An cư. Trong thời kì mưa nhiều, đi ra ngoài, sợ dẫm đạp lên các loại côn trùng và mầm non của cây cỏ trên mặt đất, khiến người đời chê cười, vì thế phải ở yên một chỗ để tu hành, tránh không ra ngoài.

Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma Sớ quyển 4, giải thích nghĩa chữ an cư như sau: thu nhiếp thân tâm yên tĩnh là an, thời kì phải ở lại là cư. Chế độ an cư trước tiên do Bà La Môn Giáo tại Ấn Độ cổ đại thực hành, về sau được Phật giáo thu dụng.

Trong Trường A Hàm quyển 2 kinh Du Hành, kinh Phật Bản Hạnh Tập quyển 39, có ghi chép sự tích Đức Phật và các đệ tử an cư tu hành. Kinh Tăng Già La Sát Sở Tập quyển hạ, thì liệt kê tên các nơi mà Đức Phật đã ngồi hạ trong khoảng bốn mươi lăm năm. Về địa điểm mà Đức Phật, sau khi thành đạo, và các đệ tử đã cử hành an cư lần đầu tiên, thì các kinh điển nói khác nhau, tuy nhiên, thông thường phần nhiều lấy vườn Lộc Dã làm nơi an cư lần đầu tiên. Lại theo Thiện Kiến Luật Tì Bà Sa quyển 3 chép, con trai của vua A Dục là Ma Hi Đà và các Tỉ Khưu ở Tích Lan (nay là Sri Lanka) đã ngồi hạ ba tháng tại Ca Na Ca Thất (Pāli: Kaịỉaka) trên núi Chi Đế Da (Pāli: Cetiyagiri). Đến nay, Tích Lan và các nước Phật giáo phương nam vẫn chiếu theo luật đã qui định mà cử hành an cư. Cứ theo luật Thập Tụng quyển 24, thì năm chúng xuất gia là Tỉ Khưu, Tỉ Khưu Ni, Thức Xoa Ma Ni, Sa Di, Sa Di Ni phải cử hành an cư, còn hai chúng tại gia Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di thì không được an cư. Lại trong năm chúng xuất gia thì Tỉ Khưu và Sa Di cùng ở một chỗ an cư tu hành, Tỉ Khưu Ni và Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Ni cùng ở một chỗ an cư tu hành.

Trong Luật tạng đại phẩm Nhập Vũ An Cư Kiền Độ (Pāli: Vassupanàyika – kkhandhaka) văn Pāli qui định, nếu Tỉ Khưu không An cư thì sẽ mắc tội ác tác (Pāli: Dukkaỉa, Đột-cát-la). Về địa điểm an cư, thì luật Tứ Phần quyển 37 An cư kiền độ, nêu lên các chỗ như: Dưới gốc cây, nhà nhỏ, hang núi, hốc cây, trên thuyền, làng mạc v.v…, hoặc nương nơi những người chăn bò, người ép dầu, người đốn gỗ để an cư. Luật Ngũ Phần quyển 19 An cư pháp, thì cấm chỉ không được an cư ở những nơi không có sự cứu hộ, như: Giữa bãi tha ma, chỗ không cây cối, nhà lợp bằng da thú (còn có lông), chỗ đất trống v.v… Lại trước khi An cư, phải sửa sang phòng xá, đồng thời, phân phối phòng xá và các vật cần dùng cho đại chúng một cách đồng đều. Còn về ngày giờ phân phối, thì luật Ma Ha Tăng Kì quyển 27 Sàng Nhục Pháp Điều, nói: Nếu nơi An cư tương đối gần thì có thể phân phối vào ngày mười lăm tháng tư; nếu nơi An cư tương đối xa, hoặc số người An cư quá đông mà phải chia bớt đến nơi khác để An cư thì có thể phân phối sớm hơn vào ngày mười ba tháng tư. Lại trước khi vào An cư, phải đối trước người mình nương tựa (vị Tỉ Khưu có đức hạnh) để bày tỏ ý kết chế An cư, gọi là đối thủ An cư; không có người nương tựa, thì trong tâm tự nói ý kết chế An cư để vào An cư, gọi là tâm niệm An cư. Trong thời gian An cư, cấm chỉ không được ra ngoài đi chơi, nếu người nào không tuân qui định ấy thì mắc tội ác tác. Tuy nhiên, cứ theo luật Tứ Phần quyển 37, thì nếu người nào có thể trở về ngay trong ngày thì được phép ra ngoài; hoặc có việc đặc biệt cần thiết, được Tăng đoàn thừa nhận, thì có thể được phép ra ngoài trong vòng bảy ngày, mười lăm ngày, phương pháp này gọi là Thất Nhật Pháp, Thụ Nhật Pháp. Ngoài ra, nếu người nào vi phạm qui định này mà ra ngoài, thì đắc tội ác tác, gọi là phá An cư, phá hạ, sẽ mất tư cách tiếp nhận các vật cúng dường An cư được phân phối. Nhưng, nếu vì các chướng nạn như: Chạy tránh ác thú, rắn độc, hỏa hoạn, nước dâng, vua bắt, giặc đuổi, trúng thực, nữ nhân, thân tộc v.v…, hoặc vì sự hóa giải việc phá tăng mà rời khỏi nơi An cư, thì không phải tội.

Về thời gian An cư, thông thường phần nhiều lấy một hạ chín tuần (tức ba tháng) làm kì hạn. Tứ Phần Luật San Phồn Bổ Khuyết Hành Sự Sao quyển thượng phần 4, lấy ngày 16 tháng 4 là ngày đầu an cư, ngày 15 tháng 7 là ngày cuối cùng, ngày hôm sau là ngày Tự tứ; luật Ma Ha Tăng Kì quyển 27, thì lấy ngày 15 tháng 7 làm ngày Tự tứ; Đại Đường Tây Vực Kí quyển 2, quyển 8, thì ghi thời kì An cư là từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 8. Về chủng loại An cư thì có hai thuyết, một thuyết là tiền An cư, hậu An cư, tiền An cư bắt đầu vào ngày 16 tháng 5, hậu An cư bắt đầu vào ngày 16 tháng 6. Thuyết thứ hai là tiền an cư, trung an cư và hậu an cư, tiền an cư bắt đầu vào ngày 16 tháng 4, trung an cư bắt đầu vào ngày 17 tháng 4 đến ngày 15 tháng 5, hậu An cư bắt đầu vào ngày 16 tháng 5. Ngoài ra, Đại thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương quyển 2 phần đầu, dẫn dụng thuyết trong kinh Niết Bàn, đem chia một ngày kết chế làm năm phần, rồi theo thứ tự, tường thuật hành chỉ của Đức Phật trong một ngày, sáng dậy Ngài mặc áo, ra ngoài khất thực hành hóa, cho đến việc nói pháp cho chúng Tỉ Khưu, chư thiên và các thiện thần. Ngày đầu An cư gọi là kết hạ, ngày kết thúc viên mãn gọi là giải hạ, quá hạ, hạ kính, hạ mãn, hạ giải, An cư kính. Thời kì giữa kết hạ và giải hạ, gọi là bán hạ. Cứ theo luật Tứ Phần quyển 43 Ca Hi Na Y Kiền Độ chép, khi kết thúc an cư phải làm bốn việc là: Tự tứ, giải giới, kết giới và thụ công đức y. Tức sau khi An cư đã viên mãn, đại chúng phải tự xét những hành vi của mình trong thời gian an cư, nếu có tội thì tự giải bày để cùng nhau sám hối, gọi là tự tứ; ngày tự tứ gọi là tự tứ nhật, Phật hoan hỉ nhật. Lại khi kết thúc an cư, phải giải trừ cái phạm vi đã được kế giới mà trong thời gian an cư không được ra khỏi, gọi là giải giới. Lại sau khi an cư đã viên mãn, các Tỉ Khưu, Tỉ Khưu Ni được thêm một tuổi hạ gọi là Pháp lạp. Pháp lạp cũng gọi là hạ lạp, là tiêu chuẩn qui định thứ bậc lớn, nhỏ của người xuất gia. Thông thường phần nhiều cử hành An cư vào mùa hạ, nhưng cũng có kết chế An cư vào mùa Đông, gọi là Đông an cư. Tại Trung Quốc, Nhật Bản và các địa phương Tây Vực đều có chế độ Đông an cư. Cứ theo Đại Đường Tây Vực Kí quyển 1 Yết Sương Na Quốc chép, thì ngày 16 tháng 12 là ngày đầu của Đông an cư, ngày 15 tháng 3 năm sau là ngày cuối cùng. Tại Trung Quốc, chế độ an cư bắt đầu được thực hành vào thời đại Diêu Tần, vào thời ấy, các luật Thập Tụng và Quảng Luật đã được truyền dịch và nói rất tường tận về tác pháp An cư, chư tăng Trung Quốc bèn theo đó mà làm lễ kết hạ. Ngoài ra, như Xuất Tam Tạng Kí Tập quyển 3 Tân Lập Luật Lai Hán Địa Tứ Bộ Tự Lục, Quảng Hoằng Minh Tập quyển 24, cũng có ghi sự tích chư tăng Trung Quốc Kết Hạ An Cư. Chế độ An cư ở Trung Quốc tuy thừa kế Ấn Độ, nhưng vì phong thổ và dân tình có khác, cho nên chưa hẳn hoàn toàn noi theo tác pháp Ấn Độ, mà cũng có chỗ biến thông. Như Đại Tống Tăng sử lược quyển hạ Tứ Hạ Lạp đều chép, từ giữa đời Đường đến đời Ngũ đại, có việc không y theo hành nghi An cư mà ban thêm tuổi hạ. Ngoài ra, tại Trung Quốc cũng có thuyết tùy ý tùy chỗ mà cử hành An cư, tức thừa nhận việc tu hành tùy nơi chỗ mà làm, chứ không giới hạn ở thời kì An cư, cho nên, những việc làm trong năm, không coi ba tháng hạ An cư là việc tất yếu. Như trong Bách Trượng Thanh Qui Nguyệt Phân Tu Tri Chương, ghi chép các việc làm mỗi tháng mà không thấy có mục An cư. Ngoài ra, cứ theo Thích Thị Yếu Lãm quyển hạ Giải Hạ đều chép, vào ngày Tự tứ, các Tỉ Khưu Ấn Độ phải lấy cỏ (tức cỏ cát tường) làm tòa ngồi cho chúng tăng, tự mình cũng ngồi trên cỏ mà làm Tự tứ. Tập tục này khi được truyền đến Trung Quốc thì có chỗ thay đổi; như chúng tăng ở các địa phương Giang Nam dưới đời Tống, vào ngày giải hạ, lấy cỏ tặng cho Đàn việt (thí chủ). Tại Nhật Bản, chế độ An cư cũng đã được thực hành từ lâu, khoảng đồng thời với hội tắm Phật, hội Vu Lan bồn từ Trung Quốc truyền vào. Trong thời gian An cư cũng có các thời giảng kinh, gọi là Hạ kinh. Vào thời đại Bình An, trong An cư, ngoài việc giảng kinh, còn tổ chức viết kinh, gọi là Hạ thư. Lại vào ngày giải hạ, thu góp các Hạ thư đem nạp cho các chùa, gọi là Thư nạp, Hạ giải nạp. Lại trong thời gian an cư ở ẩn trong các chùa, gọi là Hạ lung; ngôi nhà ở ẩn gọi là Hạ đường; trong an cư, tu niệm Phật gọi là Hạ niệm Phật; tăng kết hạ an cư gọi là Hạ tăng; trong thời gian an cư, tránh những thực vật bất tịnh, gọi là Hạ đoạn. An cư tại Nhật Bản phần nhiều là chế độ nhị kì tịnh hành (cùng làm hai kì một lúc), về mặt hình thức, xưa nay đã thay đổi không ít, nhưng cho đến nay vẫn còn được cử hành một cách trọng thể. Trong đó, đặc biệt coi trọng việc làm An cư của Thiền tông, tức hằng năm, từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 là thời kì Hạ An cư, từ ngày 15 tháng 10 đến ngày 15 tháng 1 năm sau là thời kì Đông An cư.

Tóm lại, ở trú xứ Già Lam nào có các Tỳ-kheo bố-tát, an cư và tự tứ đúng pháp, đúng luật, đúng thời; thì ở trú xứ đó có Tăng bảo thường trú. Cho nên, an cư – tự tứ nhằm khẳng định sự có mặt của Chánh pháp một cách hiện thực, và duy tinh thần hòa hợp và thanh tịnh của Tăng. Làm ngọn đuốc soi đường cho thế gian trong đêm dài tăm tối bởi bóng tối vô minh dục vọng.

Vì vậy, kết luận pháp an cư của Tăng không phải mang một hình thức kỳ bí hay huyền thoại, mà đó là một truyền thống, một hành động như Pháp, chuyển tải một thông điệp bình an, hanh phúc và trong sáng, đầy đủ các chất liệu của giới, định và tuệ mà phận sự hay trách nhiệm? Bổn phận hay Quyền lợi? Tùy vào pháp hành của các vị Tỳ-kheo mà phải miên mật hành trì, để kế thừa mạng mạch cao cả của “Chánh pháp nhãn tạng”, khiến cho mạng mạch ấy không bao giờ bị đứt đoạn giữa thế gian này.

Xin hãy nghe lắng lòng nghe Chuông và thầm đọc:

“PHẬT PHÁP XƯƠNG MINH NHỜ TĂNG GIÀ HOẰNG HÓA
THIỀN MÔN HƯNG THỊNH NHỜ ĐÀN VIỆT PHÁT TÂM”

Hương Tích
Hạ 2558 – Minh Giác

529 lượt xem